Thứ Ba, 31 tháng 5, 2016

Cỏ

Cũng chỉ là cỏ thôi mà!










Thứ Hai, 30 tháng 5, 2016

Hải đăng Kê Gà hay còn gọi là Mắt biển Kê Gà!




Hải đăng Kê Gà  mũi Kê Gà, thuộc xã Tân Thành, huyện Hàm Thuận Nam (trước thuộc huyện Hàm Tân), tỉnh Bình Thuận. Đây là một ngọn tháp cao thắp đèn làm hiệu cho tàu thuyền đi lại trong khu vực được an toàn. Ngọn Hải đăng Kê Gà đã được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam xác nhận là ngọn hải đăng cao nhất và cổ xưa nhất Việt Nam và Đông Dương. Sở dĩ có tên gọi Kê Gà hay còn gọi là Khe Gà vì mũi đất có khe giống đầu mỏ của một con . Và cũng có giả thiết khác: Đây là một phần đất tách rời từ núi Cẩm Kê mà trong sách Đại Nam nhất thống chí ghi là Kê Dữ (tức "Đảo Gà"), là vì nơi đây có đàn gà rừng với màu lông sặc sỡ sống bên khe suối có dòng nước ngọt chảy ra biển.
Trong lịch sử hàng hải ở khu vực này, Mũi Kê Gà được coi là một vị trí cực kỳ hiểm yếu của vùng biển từ Phan Rang đi Vũng Tàu.
Các thông số kỹ thuật của Ngọn Hải Đăng theo nguồn Wikipedia (Bách khoa toàn thư mở):
Thiết kế: Chnavat (người Pháp)
Thời gian xây dựng: tháng 2 năm 1897 - cuối năm 1898 và bắt đầu hoạt động vào năm 1900. Ngọn đèn được xây bằng đá và có chiều cao: 35m, chiều cao toàn bộ tính từ tầm ngọn đèn đến mặt biển: 65m.
Bóng đèn: 2.000W
Bán kính quét sáng trên biển: 22 hải lý, tương đương 40 km, dùng làm tín hiệu hướng dẫn tàu  qua lại.
Đến Bình Thuận, ngoài những địa điểm du lịch nổi tiếng như Phan Thiết, Mũi Né, Mũi Kê Gà và Ngọn hải đăng cổ là một nơi thu hút du khách.


Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2016

Phù Dung cổ tự






Chùa Phù Dung hiện nay tọa lạc tại chân núi Bình San, phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Địa điểm hành hương và du lịch này hấp dẫn du khách bởi vẻ đẹp cổ kính, hài hòa với thiên nhiên mà còn bởi những câu chuyện bí ẩn về lai lịch ngôi chùa.
Theo sách Nghiên cứu Hà Tiên, người Xiêm gọi núi là "Pù"; những người Xiêm, Khmer, Chăm, Lào đều gọi người Việt là "Youn". Như vậy, Pù Youn, mà sau này đọc biến âm thành Phù Dung, có nghĩa là "vùng núi của người Việt". Ở bán đảo Hà Tiên, có rất nhiều đồi núi lớn nhỏ, mang tên chung là Phù Dung Vạn Sơn, mãi đến thời Đô đốc Mạc Thiên Tích, các ngọn núi mới có tên riêng bằng từ Hán - Việt, như: Bình San, Tô Châu, Thạch Động... Và cái tên Phù Dung (Pù Youn) mà khi xưa dùng để chỉ tất cả các núi non vừa nói trên, sau được dùng để chỉ dãy núi nằm sát Trấn lỵ. Vì cả trước và sau ở Hà Tiên có hai chùa đều mang tên Phù Dung, và ngôi thờ nào tính đến nay cũng đều là cổ tự nên để dễ phân biệt, chùa có trước là "Phù Dung (cũ)" và chùa có sau là Phù Dung (mới). Chùa Phù Dung cũ ở tại hướng Tây Nam núi Phù Dung, còn chùa Phù Dung mới tại phía bắc núi Bình San, cách chùa xưa trên 500m.
Trải qua bao biến đổi, giờ đây trên nền đất cao ráo nơi chân núi Bình san, là một tự viện khá khang trang gồm một phần sân và hai phần thờ cách biệt.Từ  ngoài nhìn vào, phía bên trái tự viện có một lối đi nhỏ men theo triền núi. Đi khoảng 20m, sẽ gặp một ngôi mộ cổ. Đó là Lăng bà Phù Dung-Từ Thành Thục Nhơn-Nguyễn Thị Xuân (1720-1761)- Viên tịch rằm tháng 2 Âl- Hiệu Phù Cừ.
Chùa Phù Dung gắn liền với sự tích của người nằm trong ngôi mộ 
cổ trên. Có rất nhiều chuyện kể về sự tích này tuy nhiên cốt chuyện
 cơ bản không khác biệt. Theo lời kể của Thi sĩ Đông Hồ:
Cảnh am tự này, ngôi mộ cổ này, ao sen này có một sự tích khá lâm ly…
Truyền rằng: Mạc Lịnh Công (Mạc Thiên Tứ)  có một bà thứ cơ tên là bà Dì Tự. Thứ cơ sắc đẹp lắm và hay chữ lắm.
Mạc Lịnh Công, vì mê sắc đẹp, yêu tài thơ, đã từ chỗ sủng ái mà ra thiên ái. Hóa cho nên, khiến bà chính thất Nguyễn phu nhân ghen giận, lập mưu hãm hại bà thứ cơ.
Một hôm, nhân Mạc Lịnh Công đi duyệt binh vắng, ở nhà, Nguyễn phu nhân đem nhốt thứ cơ vào lòng một cái chậu úp, cho ngột mà chết. Nhưng thừa ưa, vừa lúc đó, trời bỗng đổ trận mưa to. Mạc Công cũng vừa về đến, thấy trời đang mưa, mà lạ, sao chậu to không ngửa lên hứng nước mà lại để úp. Công bèn truyền lịnh giở chậu ra, thì nàng ái cơ đang thi thóp sắp đứt hơi, nhưng may mắn thay, hãy còn cứu kịp.
Nàng thứ cơ thoát chết, trở nên chán chường sự thế, xin Mạc Công cho nàng đi tu. Trước sự tình éo le đó, Mạc Công không biết làm sao khác, cũng đành chiều ý, cất một ngôi am tự cho thứ cơ tu hành.
Bên am tự, cho đào ao, trồng hoa sen trắng, để kỷ niệm mối tình xưa. Cho đến khi thứ cơ mất, Công cho xây ngôi mộ kiên cố đẹp đẽ để tỏ lòng tưởng nhớ yêu thương người giai nhân đã vì Công mà oan khổ...


Thứ Năm, 19 tháng 5, 2016

Bầu!






Sau một năm làm Giám đốc Trung tâm đẻ thuê, thành quả cũng tạm đủ dùng. Vừa bàn giao đứa thứ tư của dợt 3!

Thứ Tư, 18 tháng 5, 2016

Về Cao Lãnh, thăm mộ Cụ Nguyễn Sinh Sắc.






Mộ của Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là phần quan trọng nhất của Khu di tích tọa lạc số 123/1, đường Phạm Hữu Lầu, thuộc phường 4, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Đây là nơi an nghỉ của Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (18621929), là một nhà nho yêu nước, và là thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Di tích được xếp hạng cấp Quốc gia ngày 9 tháng 4 năm1992.
Toàn khu lăng mộ được ốp bằng đá hoa cương. Ngôi mộ hình chữ nhật màu xám tro, yên vị trên nền bằng đá mài trắng, hình lục giác không đều mở rộng dần ra hai bên và phía trước. Vòm mộ hướng về phía Đông, là một cánh hoa sen cách điệu, có dáng dấp hình bàn tay xòe úp xuống, trên là 9 con rồng cách tân đậm nét dân gian, vươn ra trước thành 9 đầu hồi, tượng trưng cho hình ảnh nhân dân đồng bằng sông Cửu Long chở che, ôm ấp phần mộ. Trên mộ có một đỉnh trầm bằng đá Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng). Đặc biệt, tại đây có cây khế gần 300 tuổi  và cây sộp hơn 300 tuổi ở 2 bên Lăng mộ. Phía trước là hồ sen hình ngôi sao năm cánh, giữa hồ có đài sen trắng cách điệu cao 6,5 m, tượng trưng cho cuộc đời thanh bạch của Cụ Phó bảng.
Khu di tích còn có khu Đền thờ và tượng Cụ Sinh Sắc (tượng ngoài trời); Nhà trưng bày giới thiệu về cuộc đời của Cụ; Nhà sàn Bác Hồ bên ao cá phục dựng theo nguyên mẫu ở Hà Nội; Một phần của làng Hòa An xưa, phục dựng theo tỉ lệ 1/1, v.v...

Khu di tích là niềm tự hào của nhân dân Đồng Tháp. Hàng năm, tại đây, vào ngày 27 tháng 10 (âm lịch), Lễ giỗ Cụ được tổ chức rất trang nghiêm và ấm áp.

Thứ Hai, 16 tháng 5, 2016

Hoa may



     
                            Cái hồi mười bảy, mười ba
                        Cái hồi đã biết la cà bờ đê
                            Hoa may dệt kín lối về
                       Dệt hồn ta tím một miền tuổi thơ
                          Để rồi cứ mãi niềm mơ

                      Triền đê thơm ngát một bờ cỏ may

Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2016

Ao Bà Om.

Ao bây giờ, Ảnh của VA




                              (Ao ngày trước, ảnh st)
Ao Bà Om
Đến Trà Vinh, ngoài những ngôi chùa Kh'mer cổ kính dưới bóng những hàng sao, dầu cổ thụ, du khách không thể không đến Ao Bà Om, một di tích lịch sử, văn hóa mang nhiều huyền thoại của thời cha ông khai phá, gầy dựng đất phương Nam.
Ao Bà Om cách thị xã Trà Vinh khoảng 5km về phía Tây Nam, trên địa bàn khóm 4, phường 8, thị xã Trà Vinh (trước đây là ấp Tà Cụ, xã Nguyệt Hóa, huyện Châu Thành). Ao rộng 100.000m2, trong đó mặt ao gần 43.000m2. Ao còn được gọi là ao Vuông vì nó có hình vuông. Xung quanh ao là những gò cát chông chênh với gần 500 gốc sao, dầu hàng trăm năm tuổi, có rễ trồi lên mặt đất thành những hình thù kỳ vĩ, đẹp mắt. Ao Bà Om đã là niềm tự hào của người dân Trà Vinh.
Ao Bà Om có những câu chuyện kể mang nhiều chi tiết siêu nhiên nhưng cũng rất gần gũi với người dân ĐBSCL, đặc biệt là với người Khmer ở vùng đất này.
Một trong những truyện dân gian kể rằng: ngày trước, vùng đất Trà Vinh hằng năm cứ đến mùa hạn thì nước ngọt rất khan hiếm. Ruộng rẫy khô cằn, cây cỏ vàng úa. Đời sống bà con vùng đất này lầm than khôn cùng. Một ông hoàng trấn nhậm trong vùng bèn quy tụ bà con lại để đào ao giữ nước ngọt. Cùng lúc đó, trong vùng xảy ra một vụ “tranh chấp” khó giải quyết: đàn ông và đàn bà, ai phải đi cưới ai? Ai phải chịu mọi phí tổn trong lễ cưới? Ông hoàng nhân dịp này chia ra hai bên nam nữ tổ chức một cuộc thi đào ao trong 1 đêm. Ao bên nào đào sâu hơn, lớn hơn và xong trước thì sẽ thắng cuộc, bên thua sẽ phải đi cưới. Trời vừa tắt nắng, hai bên chia nhau đào ao. Bên nam thì đào ao tròn ở phía Tây còn bên nữ đào ao vuông ở phía Đông. Bên nữ do bà Om chỉ huy, thấy không thể kình được sức đàn ông nên bên nữ dùng “kế”: Họ vừa đào vừa ca múa để các chàng bỏ việc mà chạy sang rình xem. Nửa đêm, bà Om cho chặt một cây tre thật dài, treo ngọn đèn lồng rồi đem cắm ở hướng Đông. Theo giao hẹn là khi sao Mai mọc là phải ngừng công việc, khi bên nam thấy ngọn đèn tưởng là sao Mai nên họ rủ nhau về nghỉ. Trong lúc đó bên nữ đào đến sáng và xong việc trước. Bên nam thua cuộc trong sự “tâm phục, khẩu phục”. Để nhớ ơn người phụ nữ mưu trí, người ta lấy tên bà đặt tên ao, từ đó ao phụ nữ đào được gọi là ao Bà Om. Sự tích này cũng đã được ghi lại trong “Nam Kì cố sự” của Nguyễn Hữu Hiếu sưu tầm, biên soạn, NXB Đồng Tháp, 1999.
Nhân vật Bà Om được tôn vinh là một người phụ nữ mưu trí, tài năng và bản lĩnh. Câu chuyện cũng thể hiện rất rõ phong tục Mẫu hệ của người Kh’mer.

Tuy nhiên, thật đáng buồn, năm nay hạn hạn nghiêm trọng nên Ao Bà Om cạn khô không có nước!

Chủ Nhật, 1 tháng 5, 2016

56 cái ngày sinh!








Vậy là nó đã làm "Các Cụ hưu" được 1 năm. Thế mà trước ngày tròn đầy năm, nó lại được Trường cho đi du ngoạn an dưỡng già một vòng 8 ngày dọc các tỉnh Nam bộ: Trà Vinh - Sóc Trăng - Kiên Giang- Cà Mau - Châu Đốc - Đồng Tháp rồi về Ninh Thuận. Chuyến đi thật vui và ý nghĩa, vừa là những nơi nó chưa từng đến vừa là cuộc hành trình của những anh chị em đã gắn bó với nhau 33 năm. Vì vậy mà chuyện vui như pháo nổ, đôi khi có chút ngậm ngùi khi nhớ về kỷ niệm!
Chuyến đi như bao chuyến đi nhưng lại đầy ắp tình bạn, ấm áp tình người!